Hoàng tộc Quý tộc nhà Thanh

Nam nhân Hoàng tộc

Hoàng tộc nhà Thanh chia thành "Tông Thất" và "Giác La", những người có dòng máu Hoàng tộc[1], cụ thể là:

  1. Tông Thất (宗室): những người đeo dây lưng vàng "Kim hoàng thinh đái", gọi là [Hoàng đái tử; 黃帶子]; bao gồm các con cháu trực hệ của Hoàng đế, bắt đầu từ con cháu của Thanh Hiển Tổ Tháp Khắc Thế, tức là con cháu hoặc cháu anh em của Thanh Thái Tổ Nỗ Nhĩ Cáp Xích. Từ đó, những Hoàng tử là con cháu thế hệ trực tiếp của Hoàng đế đều mang Hoàng đái tử.
  2. Giác La (觉罗): những người đeo dây lưng đỏ "Hồng thinh đái", gọi là [Hồng đái tử; 紅帶子]; gồm con cháu của các anh em thúc bá của Thanh Thái Tổ Nỗ Nhĩ Cáp Xích, đây có thể xem là dòng dõi xa của Hoàng thất, tương tự chế độ Tôn Thất của Hoàng tộc nhà Nguyễn.

Tông Thất có địa vị cao hơn Giác La và có nhiều ưu đãi hơn trong việc phong tước, bổ nhiệm chức vụ. Điển hình chính là việc Giác La không thể được phân tước hiệu hoàng tộc "Nhập Bát phân công", mà đều chỉ có thể hưởng tước của quý tộc bình thường. Tước vị quý tộc Mãn Thanh cho nam giới Tông Thất, tức hậu duệ của Nỗ Nhĩ Cáp Xích hoặc hậu duệ của anh em cùng cha của Nỗ Nhĩ Cáp Xích, đều chia ra hai hạng Nhập Bát phân (入八分) và Bất nhập Bát phân (不入八分), cơ bản có 12 tước vị cùng 2 tước vị đặc thù, là tổng 14 tước vị, còn gọi Thập tứ đẳng Tước vị (十四等爵位).

Địa vị Tông Thất thời Thanh
Tên tướcPhồn thểGiản thểMãn ngữ
Nhập Bát phân tước vị
Hoà Thạc Thân vương和碩親王和硕亲王Hošo i cin wang[2]
Thế tử世子世子šìdzǐ
Đa La Quận vương多羅郡王多罗郡王Doroi giyūn wang[3]
Trưởng tử長子长子Jangdzi
Đa La Bối lặc多羅貝勒多罗贝勒Doroi beile
Cố Sơn Bối tử固山貝子固山贝子Gvsai beise
Phụng ân Trấn quốc công奉恩鎮國公奉恩镇国公Kesi-be tuwakiyara gurun-be dalire gung
Phụng ân Phụ quốc công奉恩輔國公奉恩辅国公Kesi-be tuwakiyara Gurun-de aisilara gung
Bất nhập Bát phân tước vị
Bất nhập Bát phân Trấn quốc công不入八分鎮國公不入八分镇国公Jakūn Ubu-de Dosimbuhakū Gurun-be Dalire Gung
Bất nhập Bát phân Phụ quốc công不入八分輔國公不入八分辅国公Jakūn Ubu-de Dosimbuhakū Gurun-be Aisilara Gung
Trấn quốc Tướng quân鎮國將軍镇国将军Gurun-be Dalire Janggin
Phụ quốc Tướng quân輔國將軍辅国将军Gurun-de Aisilara Janggin
Phụng quốc Tướng quân奉國將軍奉国将军Gurun-be Tuwakiyara Janggin
Phụng ân Tướng quân奉恩將軍奉恩将军Kesi-be Tuwakiyara Janggin

Trong 14 tước vị này, thì 4 tước "Thân vương", "Quận vương", "Bối lặc" và "Bối tử" thường là phong cho Hoàng tử. Một vị Hoàng tử nhà Thanh khi đến tuổi trưởng thành sẽ căn cứ theo công trạng, sự yêu quý của Hoàng đế mà sẽ sơ phong (phong tước lần đầu) một trong 4 tước vị kể trên, nhưng cũng nhiều lúc phải sau khi Hoàng đế qua đời, Hoàng tử trở thành Hoàng đệ và được anh trai mình gia phong, như Cung Trung Thân vương Dịch Hân. Thông thường, các Hoàng tử chỉ được ban lần đầu là "Bối lặc" hoặc "Bối tử", sau đó có thành tích mới được phong Vương. Việc một Hoàng tử được phong tước Vương ngay lần phong đầu thường là con lớn hoặc do Hoàng hậu sinh ra; một số trường hợp là do Hoàng đế niệm tình sắp mất như Vinh Thuần Thân vương Vĩnh Kỳ.

Hai tước vị đặc biệt "Thế tử" và "Trưởng tử" là danh phận chính thức mà chính phủ nhà Thanh công nhận dành cho người thừa kế hợp pháp của hai tước vị "Thân vương" cùng "Quận vương". Bất quá trên thực tế, rất nhiều người thừa kế Thân vương không mang địa vị Thế tử từ trước, tương tự trường hợp Quận vương, do đó đến đời Càn Long thì hai tước vị "Thế tử" cùng "Trưởng tử" trên thực đều đã bị bãi bỏ.

Các tước vị trên đều là siêu phẩm tước vị (trên nhất phẩm), 4 tước vị dưới cùng theo thứ tự là Nhất phẩm đến Tứ phẩm, mỗi tước Tướng quân (trừ Phụng ân Tướng quân) đều chia ra làm 3 bậc, trong đó nếu có thêm Nhất vân Kỵ úy (一雲騎尉) lại chia ra làm một bậc riêng. Bọn họ bản chất là cùng cái cấp bậc, chỉ là ở hưởng lương sẽ có khác biệt một chút.

Nguyên tắc thừa kế

Việc kế thừa tước vị đời Thanh chính là án theo phương pháp Thế tập đệ giáng (世袭递降), có nghĩa "Thừa kế giáng vị" qua các đời. Đây là bởi vì nhà Thanh nhìn gương nhà Minh trong việc lạm tước đã phải hứng chịu gánh nặng kinh tế quá lớn. Cho nên sau khi nhập quan, trừ bỏ Thiết mạo tử vương giữ lại nguyên tước, tất cả Tông Thất thừa tước đều phải bị giáng tước qua từng đời. Tuy nhiên vì để tránh Tông Thất truyền đời cuối cùng không còn tước vị, triều đình cũng quy định giới hạn nhất định. Cụ thể thì:

  • Các tước vị thuộc "Nhập Bát phân": thừa kế giảm xuống 4 lần rồi trở thành vĩnh viễn. Ví dụ như:
    • [Thân vương] giảm đến ["Phụng ân Trấn quốc công"];
    • [Quận vương] giảm đến ["Phụng ân Phụ quốc công"];
    • [Đa La Bối lặc] giảm đến ["Bất nhập Bát phân Trấn quốc công"];
    • [Cố Sơn Bối tử] giảm đến ["Bất nhập Bát phân Phụ quốc công"];
    • [Phụng ân Trấn quốc công] giảm đến ["Nhất đẳng Trấn quốc Tướng quân"];
    • [Phụng ân Phụ quốc công] giảm đến ["Nhất đẳng Phụ quốc Tướng quân"].
  • Các tước vị "Bất nhập Bát phân": sẽ giảm đến [Phụng ân Tướng quân], qua 3 đời thì tước Phụng ân Tướng quân sẽ bị hủy bỏ.

Lệ đời nhà Minh, con trưởng tập nguyên tước của cha, các con sẽ tập tước giảm đi một bậc; tức nếu Thân vương có 10 con trai, thì con cả sẽ tiếp tục làm Thân vương mà 9 người con khác đều là Quận vương. Nhà Thanh không theo cách này, chế định "Thế tập đệ giáng" chính là chỉ đem một người thừa tập tước của cha, mà tước đó lại còn bị giáng qua các đời. Còn những người con khác, đều phải qua bài thi khảo hạch để mưu cầu được tước vị, nhưng họ chỉ có thể được thụ phong "Bất nhập Bát phân" tước vị hữu hạn, mà không thể cầu hàng "Nhập Bát phân" vô hạn. Đây được gọi là Khảo phong (考封).

Do vấn đề thừa tước, chỉ có 1 con thừa tước sẽ khiến không ít Tông Thất không được phong tước, và họ gọi chung là Nhàn tản Tông Thất (閒散宗室). Nguyên bản, họ không có tước vị mũ áo và nhìn trông không khác gì dân thường, được đánh giá là dạng Tông Thất địa vị thấp kém, nên hay ra ngoài dân gian làm bậy, đến năm Càn Long thứ 22 (1755) đã đến hơn 700 người. Càn Long Đế vì quá mất mặt mà vào năm Càn Long thứ 47 (1782), lấy cớ "Hoàng tộc mà không có chức tước cùng áo mũ, há khác nào dân thường" mới chính thức ban quy định mũ áo cùng trợ cấp.

Nhưng dù nghe "Khảo phong" có chút công bằng và gợi mở tương lai, nhưng chế độ Khảo phong đời Thanh cũng dựa theo thân phận tước của cha và địa vị của mẹ mà mà giới hạn gay gắt, thành lập nên một "Tiêu chuẩn cơ bản" như sau:

Tước vị thông qua Khảo phong đời Thanh
Tước vị của chaCon của Chính thấtCon của Trắc thấtCon của Thiếp hầu
Hoà Thạc Thân vươngBất nhập Bát phân Trấn quốc côngNhị đẳng Trấn quốc Tướng quânTam đẳng Phụ quốc Tướng quân
Thế tửNhất đẳng Trấn quốc Tướng quânTam đẳng Trấn quốc Tướng quânTam đẳng Phụng quốc Tướng quân
Đa La Quận vươngNhất đẳng Trấn quốc Tướng quânTam đẳng Trấn quốc Tướng quânTam đẳng Phụng quốc Tướng quân
Trưởng tửNhị đẳng Trấn quốc Tướng quânNhất đẳng Phụ quốc Tướng quânPhụng ân Tướng quân
Đa La Bối lặcNhị đẳng Trấn quốc Tướng quânNhất đẳng Phụ quốc Tướng quânPhụng ân Tướng quân
Cố Sơn Bối tửTam đẳng Trấn quốc Tướng quânNhị đẳng Phụ quốc Tướng quânPhụng ân Tướng quân
Phụng ân Trấn quốc côngNhất đẳng Phụ quốc Tướng quânTam đẳng Phụ quốc Tướng quânNhàn tản
Phụng ân Phụ quốc côngNhị đẳng Phụ quốc Tướng quânNhất đẳng Phụng quốc Tướng quânNhàn tản
Bất nhập Bát phân Trấn quốc côngTam đẳng Phụ quốc Tướng quânNhàn tảnNhàn tản
Bất nhập Bát phân Phụ quốc côngTam đẳng Phụ quốc Tướng quânNhàn tảnNhàn tản
Trấn quốc Tướng quânTam đẳng Phụ quốc Tướng quânNhàn tảnNhàn tản
Phụ quốc Tướng quânTam đẳng Phụng quốc Tướng quânNhàn tảnNhàn tản
Phụng quốc Tướng quânPhụng ân Tướng quânNhàn tảnNhàn tản
Phụng ân Tướng quânNhàn tảnNhàn tảnNhàn tản

Dù kết quả thi cử của Tông Thất tốt ra sao, đều không thể vượt qua giới hạn của bảng tiêu chuẩn này. Ngược lại, nếu kết quả thi không tốt, thì đều dựa vào bảng tiêu chuẩn này mà giáng đi tương ứng. Cụ thể mà nói, bài thi Tông Thất phải trải qua ba đề mục là Phiên dịch (翻译), Mã tiễn (马箭) cùng Bộ tiễn (步箭), mỗi đề mục có 3 mức đánh giá là "Ưu", "Bình" và "Kém". Cả 3 đề mục đều kết quả Ưu, thì người đó sẽ dựa vào bảng tiêu chuẩn có tước vị tương ứng thân phận. Hai ưu một bình, kém đi 1 bậc; một ưu hai bình và hai ưu một kém giảm 2 bậc; ba bình cùng một ưu một bình một kém thì giảm 3 bậc; mà một ưu hai kém, hai bình một kém cùng một bình hai kém thì không được cấp tước vị. Bình thường thì Tông Thất đến 20 tuổi là có tư cách xin Khảo phong, không được lần này thì đều có thể lần sau, có người đến 50 tuổi vẫn không qua được.

Một ví dụ giảng giải như sau, Tông Thất A có cha là Thân vương, cha qua đời, tước vị do anh của A kế tục, mẹ là Đích Phúc tấn. Khi tham gia khảo phong, Mã tiễn cùng Bộ tiễn hạng ưu, nhưng Phiên dịch là kém. Án theo bảng tiêu chuẩn, A là con trai của Thân vương Đích Phúc tấn, nay ra Hai ưu một kém, nên dựa theo đó sẽ giảm đi 2 bậc so với tiêu chuẩn thân phận, tức từ Bất nhập Bát phân Trấn quốc công giảm xuống thành Nhất đẳng Trấn quốc Tướng quân là 1 bậc, rồi xuống thành Nhị đẳng Trấn quốc Tướng quân tức là giảm 2 bậc theo như kết quả thi và tiêu chuẩn.

Nữ nhân Hoàng tộc

Xem thêm thông tin: Cách cách

Các tước hiệu sau được ban cho nữ nhân trong Hoàng tộc:

Tước vị nữ quyến hoàng tộc nhà Thanh
Tên tướcPhồn thểGiản thểMãn ngữ
Cố Luân Công chúa固倫公主固伦公主Gurun i gungju[4]
Hoà Thạc Công chúa和碩公主和硕公主Hošo i gungju
Quận chúa郡主郡主Hosoi i gege
Huyện chúa縣主县主Doro i gege
Quận quân郡君郡君Beile i jui doro i gege
Huyện quân縣君县君Gusa i gege
Hương quân鄉君乡君Gung ni jui gege

Năm Thuận Trị thứ 17 (1660), Hoàng đế đặt ra quy định phong hiệu cho con gái hoàng tộc sau khi nhập quan[5]. Lại trong đó có một nội dung:

公主由中宫出者封固伦公主,由妃嫔出者封和硕公主。如中共抚宗室女下嫁,亦封和硕公主。亲王女封郡主,郡王女封县主,贝勒女封郡君,贝子女封县君,入八分镇国公辅国公女封乡君。

.

Công chúa ở trong cung, do Hoàng hậu sinh ra gọi là Cố Luân Công chúa, do Phi sinh ra gọi là Hòa Thạc Công chúa. Tông Thất nữ từ nhỏ được nuôi trong cung, khi hạ giá cũng gọi Hòa Thạc Công chúa. Con gái Thân vương phong Quận chúa, con gái Quận vương phong Huyện chúa, con gái Bối lặc phong Quận quân, con gái Bối tử phong Huyện quân, con gái Bất nhập bát phân Trấn Quốc công cùng Phụ Quốc công tắc đều phong Hương quân.

— Quy định và tước vị nữ quyến hoàng thất thời Thuận Trị

Nhưng là lúc này, trừ bỏ Hoàng nữ được phân chia "Đích thứ phân biệt" dựa theo phong hiệu Cố Luân Công chúa hoặc Hòa Thạc Công chúa, thì Tông nữ khi được sách phong cũng không phân chia đích-thứ, cho nên ở năm Khang Hi thứ 45 (1706), Khang Hi Đế hạ lệnh sửa đổi loại tình huống này:

康熙四十五年题淮:亲王以下入八分公以上侧福晋、侧室所生女,与嫡出一例授封,实为过优。嗣后,亲王侧福晋所生女,降二等,视贝勒嫡女,授为郡君。郡王侧福晋所生女,降二等,视贝子嫡女,授为县君。贝勒侧夫人所生女,降二等,视镇国公嫡女,授为乡君。至贝子镇国公辅国公侧室所生女,并无应降品级,将贝子侧夫人所生女食五品俸,镇国公辅国公侧夫人所生女食六品俸,其馀并称宗女,不授封。

.

Từ Thân vương đến Bất nhập bát phân công, con gái do Trắc Phúc tấn hay Trắc thất sinh ra, cùng con gái Đích xuất đồng loạt được thụ phong, như vậy là quá ưu đãi. Về sau, con gái do Thân vương Trắc Phúc tấn sinh ra, án xuống 2 cấp, như Đích nữ của Bối lặc mà đều phong Quận quân. Con gái do Quận vương Trắc Phúc tấn sinh ra, án xuống 2 cấp, như Đích nữ của Bối tử mà thụ phong làm Huyện quân. Con gái của Bối lặc Trắc Phu nhân sinh ra, án xuống 2 cấp, như Đích nữ của Trấn Quốc công mà thụ phong làm Hương quân.

Còn như con gái của Trắc thất của các Bối tử và Phụ Quốc công thì chỉ đãi bổng án mà không nên có phẩm cấp. Con gái do Trắc thất của Bối tử sinh ra án theo bậc Ngũ phẩm, riêng con gái do Trắc thất của Phụ Quốc công sinh ra đãi bổng Lục phẩm. Chỉ gọi là Tông nữ, không thụ phong.

— Chỉ dụ năm Khang Hi thứ 45
Tước vị ban cho Tông nữ thời Thanh
Tước vị của chaCon của Chính thấtCon của Trắc thấtCon của thiếp hầu
Hoà Thạc Thân vươngQuận chúaQuận quânTông nữ
Đa La Quận vươngHuyện chúaHuyện quânTông nữ
Đa La Bối lặcQuận quânHương quânTông nữ
Cố Sơn Bối tửHuyện quânTông nữ (Nhận bổng lộc Ngũ phẩm)Tông nữ
Phụng ân Trấn quốc côngHương quânTông nữ (Nhận bổng lộc Lục phẩm)Tông nữ
Phụng ân Phụ quốc côngHương quânTông nữ (Nhận bổng lộc Lục phẩm)Tông nữ
Bất nhập Bát phân Trấn quốc côngTông nữTông nữTông nữ
Bất nhập Bát phân Phụ quốc côngTông nữTông nữTông nữ
Trấn quốc Tướng quânTông nữTông nữTông nữ
Phụ quốc Tướng quânTông nữTông nữTông nữ
Phụng quốc Tướng quânTông nữTông nữTông nữ
Phụng ân Tướng quânTông nữTông nữTông nữ

Không giống với chế độ "Khảo phong" từ năm 20 tuổi dành cho nam giới, tước vị dành cho các Tông nữ, ngoại trừ Công chúa, cơ bản đều được phong vào thời điểm xuất giá, nếu như 16 tuổi gả chồng thì 16 tuổi được phong, nếu 40 tuổi gả chồng thì 40 tuổi được phong. Công chúa thông thường cũng như vậy, tuy nhiên vẫn có ngoại lệ được phong sớm (như Cố Luân Hòa Kính Công chúa). Tước vị của Tông nữ một khi đã được phong thì không vì tước vị và thân phận của cha mẹ mà thay đổi. Như con gái của Quận vương được phong Huyện chúa rồi xuất giá, cho dù sau này cha có được thăng Thân vương thì vị này cũng không được tấn phong Quận chúa. Hơn nữa, việc hôn phối của Tông nữ cũng có nhưng quy định nhất định. Những vị Tông nữ thuộc "Cận phái Tông chi" - tức từ hậu duệ của những Tông thất cùng ông nội với Đương kim Hoàng đế - thì chuyện hôn phối của họ bình thường đều do Hoàng đế quyết định và chỉ hôn. Những nhánh "Cận chi" xa hơn hay "Viễn chi" đều được tự do hôn phối, cũng có trường hợp được Hoàng đế đặc biệt chỉ hôn.

Từ triều Càn Long, trừ con gái của Thân vương và Quận vương đều được phong theo lệ cũ, còn lại con gái của Bối lặc trở xuống đều chỉ có một con gái của Chính thất được phong theo lệ, còn lại những con gái của Chính thất khác đều theo lệ của con gái Trắc thất mà phong, con gái của Trắc thất lại áng theo lệ của con gái Thiếp hầu (tức không được phong). Vì vậy, Nữ nhân Hoàng tộc thời Thanh có được tước vị chiếm tỉ lệ rất thấp, nếu Nam giới có tước vị chiếm 6% thì Nữ giới chỉ chiếm được 3% trong tổng số. Từ Quận chúa đến Hương quân đều gọi một cách chính thức là Tông nữ (宗女), không phong tước chỉ có thể được gọi là "Cách cách" như một dạng nhã xưng.

Chồng của Cố Luân Công chúa đến Hương quân đều được gọi là Ngạch phò (giản thể: 额驸; phồn thể: 額駙; bính âm: Éfù), tương đương Phò mã triều trước, có phẩm hàm tuỳ theo tước vị của vợ họ, như chồng của Cố Luân Công chúa được gọi là Cố Luân Ngạch phò (固伦额驸), chồng của Hòa Thạc Công chúa gọi là Hòa Thạc Ngạch phò (和硕额驸), riêng chồng của Quận chúa trở xuống đều phải nói rõ ra là "Quận chúa Ngạch phò" để rạch ròi.

Ngạch phò triều Thanh
Tước vịDanh xưng đặc biệtPhẩm cấp của Ngạch phò (Phẩm cấp tương đương)
Cố Luân Công chúaCố Luân Ngạch phò (Bối tử)
Hoà Thạc Công chúaHòa Thạc Ngạch phò (Siêu phẩm Công)
Quận chúaHòa Thạc Cách cách, Thân vương Cách cáchQuận chúa Ngạch phò (Quan Võ nhất phẩm)
Huyện chúaĐa La Cách cách, Quận vương Cách cáchHuyện chúa Ngạch phò (Quan Võ nhị phẩm)
Quận quânĐa La Cách cách, Bối lặc Cách cáchQuận quân Ngạch phò (Quan Võ tam phẩm)
Huyện quânCố Sơn Cách cách,Bối tử Cách cáchHuyện quân Ngạch phò (Quan Võ tứ phẩm)
Hương quânCông cách cáchHương quân Ngạch ph  ( Quan Võ ngũ phẩm)

Năm Đạo Quang thứ 24 (1844), quy định rằng về sau khi xưng hô Công chúa, phong hiệu viết ở đằng trước, mà "Cố Luân" cùng "Hòa Thạc" đều viết ở sau và chỉ ngay trước hai chữ Công chúa, tức [Mỗ mỗ Cố Luân Công chúa; 某某固伦公主] và [Mỗ mỗ Hòa Thạc Công chúa; 某某和硕公主].

Lương bổng

Căn cứ theo Khâm định Đại Thanh hội điển sự lệ, lương bổng của các tước vị trên như sau, đều là theo năm[6]:

Bổng lộc Tông Thất nhà Thanh
Tước vị Tông ThấtBổng (bạc)Lộc (gạo)
Hòa Thạc Thân vương10.000 lượng10.000 hộc
Thế tử6.000 lượng6.000 hộc
Đa La Quận vương5.000 lượng5.000 hộc
Trưởng tử3.000 lượng3.000 hộc
Đa La Bối lặc2.500 lượng2.500 hộc
Cố Sơn Bối tử1.300 lượng1.300 hộc
Phụng ân Trấn quốc công700 lượng700 hộc
Phụng ân Phụ quốc công500 lượng500 hộc
Nhất đẳng Trấn quốc Tướng quân410 lượng410 hộc
Nhị đẳng Trấn quốc Tướng quân385 lượng385 hộc
Tam đẳng Trấn quốc Tướng quân360 lượng360 hộc
Nhất đẳng Phụ quốc Tướng quân kiêm Nhất vân Kỵ úy335 lượng335 hộc
Nhất đẳng Phụ quốc Tướng quân310 lượng310 hộc
Nhị đẳng Phụ quốc Tướng quân285 lượng285 hộc
Tam đẳng Phụ quốc Tướng quân260 lượng260 hộc
Nhất đẳng Phụng quốc Tướng quân kiêm Nhất vân Kỵ úy235 lượng235 hộc
Nhất đẳng Phụng quốc Tướng quân210 lượng210 hộc
Nhị đẳng Phụng quốc Tướng quân185 lượng185 hộc
Tam đẳng Phụng quốc Tướng quân160 lượng160 hộc
Phụng ân Tướng quân kiêm Nhất vân Kỵ úy135 lượng135 hộc
Phụng ân Tướng quân110 lượng110 hộc

Về lương bổng phụ nữ Hoàng tộc đời Thanh thì tương đối đơn giản hơn, chia ra hai dạng là gả ở kinh sư và gả đi ngoại phiên (tức gả đi lấy các Vương công thuộc về Mông Cổ Minh kỳ). Khi gả trong kinh sư, Cố Luân Công chúa mỗi năm lãnh 400 lượng bạc, Hòa Thạc Công chúa là 300 lượng bạc, lại còn ban thêm số hộc gạo tương ứng. Khi gả xa, Cố Luân Công chúa tăng lên 1000 lượng bạc, Hòa Thạc Công chúa là 400 lượng bạc, đổi gạo thành lụa là gấm vóc. Nhìn chung nếu lấy "Cố Luân Công chúa" là lớn nhất, thì lương bổng các Tông nữ khác đều thấp hơn rất nhiều trung bình Tông Thất nam giới. Những Tông nữ không được phong, không có bổng lộc, trong một số tình huống đặc thù có thể xin trợ cấp như quả phụ hoặc mồ côi, một tháng được 2 lượng, một năm được 24 lượng bạc.

Bổng lộc Hoàng nữ và Tông nữ nhà Thanh
Tước vị Hoàng nữ và Tông nữGả ở kinh sưGả đi ngoại phiên
Cố Luân Công chúa400 lượng bạc, 400 hộc gạo1000 lượng bạc, 30 tấm gấm vóc
Hòa Thạc Công chúa300 lượng bạc, 300 hộc gạo400 lượng bạc, 15 tấm gấm vóc
Quận chúa160 lượng bạc, 160 hộc gạoBổng như cũ, 12 tấm gấm vóc
Huyện chúa110 lượng bạc, 110 hộc gạoBổng như cũ, 10 tấm gấm vóc
Quận quân60 lượng bạc, 60 hộc gạoBổng như cũ, 8 tấm gấm vóc
Huyện quân50 lượng bạc, 50 hộc gạoBổng như cũ, 6 tấm gấm vóc
Hương quân40 lượng bạc, 40 hộc gạoBổng như cũ, 5 tấm gấm vóc

Ngạch phò tuy cũng có lương bổng, nhưng đều chưa đến 500 lượng bạc. Từ năm Càn Long thứ 36 (1771), Ngạch phò của những Tông nữ thuộc hậu duệ của Thuận Trị Đế trở về sau mới có bổng lộc, còn những Ngạch phò của Tông nữ thuộc những chi hệ khác thì chỉ có tước vị mà không có bổng lộc. Tương tự với việc "Nội mệnh phụ" là tước vị thuộc về nhà chồng thì "Ngạch phò" cũng là tước vị thuộc về Tông nữ và Hoàng thất. Sau khi Tông nữ qua đời, nếu Ngạch phò không cưới vợ kế thì có thể giữ lại tước vị, một khi đã tái giá thì mọi tước vị và đãi ngộ đều lập tức hủy bỏ.

Bổng lộc Ngạch phò nhà Thanh
Tước vị Hoàng nữ và Tông nữPhong hiệu của Ngạch phòPhẩm cấp của Ngạch phòBổng lộc của Ngạch phò
Cố Luân Công chúaCố Luân Ngạch phòBối tử300 lượng
Hòa Thạc Công chúaHòa Thạc Ngạch phòSiêu phẩm Công250 lượng
Quận chúaQuận chúa Ngạch phòQuan Võ nhất phẩm100 lượng
Huyện chúaHuyện chúa Ngạch phòQuan Võ nhị phẩm60 lượng
Quận quânQuận quân Ngạch phòQuan Võ tam phẩm50 lượng
Huyện quânHuyện quân Ngạch phòQuan Võ tứ phẩm40 lượng
Hương quânHương quân Ngạch phòQuan Võ ngũ phẩmKhông có